Câu hỏi: Tính tập thể của văn học dân gian là gì? Ví dụ?
Trả lời:
Tập thể: theo nghĩa hẹp là một nhóm người, theo nghĩa rộng là một cộng đồng dân cư.
– Cơ chế sáng tạo tập thể:
Chủ nghĩa tập thể phản ánh cách sáng tác văn học dân gian: lúc đầu, tác phẩm do một người khởi xướng. Người này đọc tác phẩm cho người khác nghe. Công việc tốt sẽ được chấp nhận chung. Sau đó nhân dân ở các địa phương khác nhau hoặc các thế hệ khác nhau tiếp tục lưu truyền và sáng tạo tác phẩm, làm cho tác phẩm dần dần thay đổi, thường xuyên phong phú và hoàn thiện hơn về nội dung và hình thức nghệ thuật. .
Hãy cùng Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội tìm hiểu thêm về dân gian để làm sáng tỏ câu hỏi trên nhé!
I. Văn học dân gian là gì?
Văn học dân gian là tác phẩm nghệ thuật truyền miệng do một tập thể sáng tạo ra nhằm phục vụ trực tiếp các hoạt động khác nhau trong đời sống cộng đồng. Đối với người Việt Nam, văn học dân gian chính là nguồn sữa tươi nuôi dưỡng bao thế hệ thanh niên lớn lên trong chiếc nôi tre Việt, trong lời ru dân tộc. Văn học dân gian không chỉ góp phần thể hiện đời sống, tâm hồn lao động của người bình dân mà còn là mảnh đất màu mỡ cho vườn hoa tình yêu đơm hoa kết trái. Qua văn học dân gian, ta cảm nhận rõ hơn sự kì diệu của ngôn ngữ tình yêu, yêu gốc lúa, vườn rau, yêu cuộc sống quanh ta hơn.
II. Những nét cơ bản của văn học dân gian
1. Tính truyền khẩu của văn học dân gian
– Truyền miệng là phương thức sáng tạo và lưu truyền của văn học dân gian. Văn học truyền miệng ra đời từ khi dân tộc chưa có chữ viết. Tuy nhiên, khi dân tộc đã có chữ viết và văn học viết thì văn học truyền khẩu tiếp tục phát triển, một mặt do đại đa số nhân dân chưa có điều kiện học tập để thụ hưởng những thành tựu của văn học viết; Mặt khác, văn học viết chưa thể hiện đầy đủ tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, thị hiếu và phương thức hoạt động nghệ thuật của nhân dân. Vì vậy, nhiều người có học, chịu ảnh hưởng tư tưởng của nhân dân cũng tham gia sáng tác, lưu truyền văn học dân gian.
Văn nghệ dân gian có nhiều hình thức diễn xướng khác nhau: tục ngữ, ngâm thơ, ca dao, truyện cổ tích, chèo tuồng…
Do tồn tại và lưu truyền theo phương thức truyền miệng nên các tác phẩm văn học dân gian thường ngắn gọn, dễ nhớ, dễ bổ sung, bớt đi cho các thế hệ mai sau.
2. Văn học dân gian là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể (tập thể).
Tập thể: theo nghĩa hẹp là một nhóm người, theo nghĩa rộng là một cộng đồng dân cư.
– Cơ chế sáng tạo tập thể:
Chủ nghĩa tập thể phản ánh cách sáng tác văn học dân gian: lúc đầu, tác phẩm do một người khởi xướng. Người này đọc tác phẩm cho người khác nghe. Công việc tốt sẽ được chấp nhận chung. Sau đó nhân dân ở các địa phương khác nhau hoặc các thế hệ khác nhau tiếp tục lưu truyền và sáng tạo tác phẩm, làm cho tác phẩm dần dần thay đổi, thường xuyên phong phú và hoàn thiện hơn về nội dung và hình thức nghệ thuật. .
– Tại sao văn học dân gian lại là tập thể?
– Văn học dân gian có tính tập thể vì: văn học dân gian lúc đầu là sản phẩm của các cá nhân, nhưng sau đó được nhiều người (tập thể) tham gia chỉnh sửa, hoàn thiện để tác phẩm ngày càng hoàn thiện. . tốt hơn, tốt hơn. Sáng tác tập thể ở đây không có nghĩa là mọi người ngồi lại với nhau, sáng tác cùng một tác phẩm.
Như một hệ quả tất yếu của chủ nghĩa tập thể, văn học dân gian cũng không đồng nhất.
Khác với tác phẩm văn học viết tồn tại dưới hình thức văn bản và trở thành một chỉnh thể thống nhất, ổn định sau khi hoàn thành, tác phẩm văn học dân gian là một hệ thống mở.
– Do quá trình tham gia sáng tác tập thể của nhóm ở những không gian và thời gian khác nhau, của các nghệ sĩ khác nhau, tạo nên sự khác biệt giữa các văn bản của cùng một tác phẩm.
– Ví dụ:
“Đường về Huế quanh co,
Màu xanh đặc biệt. Đồ họa đẹp như tranh vẽ. “
Và:
“Đường về Nghệ An quanh co,
Màu xanh đặc biệt. Đồ họa đẹp như tranh vẽ. “
“Ai đã dựng ngọn núi Hồng cao,
Ai đào sâu sông Lam?
Và:
“Ai đã dựng núi Voi cao,
Ai đào sông Cầu, ai đào sâu?
Nhân dân lao động là lực lượng chủ yếu tạo nên kho tàng văn học dân gian đồ sộ của mỗi dân tộc.
III. Hệ thống thể loại văn học dân gian
– Văn học dân gian Việt Nam cũng như văn học dân gian của nhiều dân tộc khác trên thế giới đều có những thể loại riêng và chung, tạo thành một hệ thống. Mỗi thể loại phản ánh cuộc sống theo cách thức và nội dung riêng. Hệ thống thể loại của văn học dân gian Việt Nam bao gồm:
1. Thần thoại:
Các tác phẩm tự sự dân gian thường kể về các vị thần, nhằm giải thích tự nhiên, thể hiện khát vọng chinh phục tự nhiên và phản ánh quá trình sáng tạo văn hóa của người xưa.
2. Sử thi:
– Tác phẩm tự sự dân gian có dung lượng lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp điệu, xây dựng hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hoặc nhiều sự kiện lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng của nhân dân. mọi người. quần thể cổ đại.
3. Chú thích:
– Tác phẩm tự sự dân gian kể về các sự kiện, nhân vật lịch sử (hoặc có liên quan đến lịch sử) theo hướng lý tưởng hóa, qua đó thể hiện lòng ngưỡng mộ, kính trọng của nhân dân đối với những người có công với nước, với dân tộc, với cộng đồng cư dân của một vùng.
4. Truyện cổ tích:
– Tác phẩm tự sự dân gian trong đó cốt truyện và hình tượng được hư cấu có chủ đích, kể về số phận của những con người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo, lạc quan của nhân dân lao động.
5. Truyện ngụ ngôn:
– Tác phẩm tự sự dân gian ngắn gọn, có kết cấu chặt chẽ, thông qua các ẩn dụ (chủ yếu là hình ảnh con vật) để kể về những sự việc có liên quan đến con người, từ đó nêu lên bài học kinh nghiệm. về cuộc đời hay về triết lý nhân sinh.
6. Truyện cười:
Tác phẩm tự sự dân gian ngắn gọn, kết cấu chặt chẽ, có kết thúc bất ngờ, kể về những sự việc dở khóc dở cười trong cuộc sống, có tác dụng gây cười, giải trí và phê phán.
7. Tục ngữ:
– Câu văn ngắn gọn, súc tích, phần lớn có hình ảnh, vần điệu, nhịp điệu, đúc kết kinh nghiệm thực tế, thường dùng trong giao tiếp hàng ngày của con người.
8. Câu đố:
– Các bài đồng dao hoặc câu văn thường có vần điệu, mô tả câu đố bằng hình ảnh, hình ảnh lạ để người nghe tự tìm lời giải, nhằm mục đích giải trí, rèn luyện tư duy và cung cấp kiến thức về cuộc sống. . .
9. Con dao:
– Trữ tình dân gian, thường kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm thể hiện thế giới nội tâm của con người.
10. Câu:
– Tác phẩm tự sự dân gian bằng văn vần, lối kể mộc mạc, chủ yếu nói về những sự kiện, thời sự của làng quê, đất nước.
11. Truyện thơ:
– Là tác phẩm tự sự dân gian bằng thơ, giàu chất trữ tình, phản ánh số phận và khát vọng của con người khi hạnh phúc hôn nhân và công bằng xã hội bị tước đoạt.
12. Chèo thuyền:
– Tác phẩm sân khấu dân gian, kết hợp yếu tố trữ tình và trào phúng vừa biểu dương những tấm gương đạo đức, vừa phê phán, đả kích cái ác trong xã hội. (Ngoài chèo, sân khấu dân gian còn có các loại hình khác như tuồng dân gian, múa rối, trò chơi kể chuyện.)
Đăng bởi: Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
Bạn xem bài Thế nào là tính tập thể của văn học dân gian? Ví dụ? | Ngữ Văn 10 có giải quyết vấn đề bạn học không?, nếu không, hãy bình luận thêm về tính tập thể của văn học dân gian là gì? Ví dụ? | ngữ văn 10 bên dưới để https://vietabinhdinh.edu.vn/ chỉnh sửa & hoàn thiện nội dung tốt hơn phục vụ bạn đọc! Cảm ơn bạn đã ghé thăm website của trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
#thế nào là #tập thể #của #vănhọc #vănhọc #dân gian #dân gian #Thí dụ #Ngữ văn #Văn
Nhớ để nguồn bài viết này: Tính tập thể của văn học dân gian là gì? Ví dụ? | Ngữ Văn 10 của website vietabinhdinh.edu.vn
Chuyên mục: Giáo dục