Phân tích triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Văn mẫu 10 hay nhất

Phân tích triết lý nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – 10 văn mẫu hay nhất

Phân tích triết lý nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – 10 bài văn mẫu hay nhất –

Hướng dẫn thiết lập Nêu triết lý nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm Ngắn gọn, chi tiết và hay nhất. Với dàn bài và các bài văn mẫu được biên soạn, biên soạn dưới đây sẽ giúp các em có thêm tài liệu hữu ích cho việc học tập môn ngữ văn. Cùng tham khảo nhé!

Nêu triết lý nhân sinh trong bài thơ Nhàn

Phân tích triết lý nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – 10 văn mẫu hay nhất

I. Giới thiệu

– Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm.

– Vài nét triết lí nhân sinh trong bài thơ “Cảnh khuya”.

II. Thân hình

– Hoàn cảnh sáng tác, thể loại.

– Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn cách lánh xa chân lấm tay bùn, tìm về sống gần làng quê thôn dã để giữ cốt cách cao thượng.

– Triết lý nhân sinh ở đời: Vẻ đẹp tâm hồn là điều đáng quý, danh lợi như mộng.

– Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn cho mình cuộc sống ung dung, nhàn nhã, với những sinh hoạt rất đời thường và những thú vui tao nhã.

– Ngôn ngữ thơ mộc mạc, tự nhiên, giản dị, độc đáo thể hiện lối sống ung dung, thư thái.

– Nguyễn Bỉnh Khiêm mượn điển tích đời Đường, so sánh “phú” với “giấc mộng” để tỏ thái độ khinh bỉ phú quý.

III. Kết thúc

– Khẳng định triết lý nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

– Suy nghĩ của em về hai câu thơ cuối.

Bài văn mẫu 1 – Phân tích triết lý nhân sinh trong thơ văn giải trí

Phân tích triết lý nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm - (ảnh 2)

Sống an nhàn, chân chất làng quê, không bon chen, bon chen là lối sống mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn khi quyết định về quê lập nghiệp. Bài thơ Nôm “Nhàn” được rút từ sách “Bạch Vân Quốc Ngữ Thi” gửi gắm nỗi lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đồng thời thể hiện quan niệm sống, nhân cách cao cả và triết lý nhân sinh sâu sắc. Hai câu cuối của bài thơ tập trung vào triết lý sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm: danh lợi như một giấc mộng phù du, còn vẻ đẹp tâm hồn mới là điều đáng quý mãi mãi.

“Rượu hãy đến gốc cây, tôi sẽ uống Thấy phú quý như mộng”

Đời người như một giấc mộng, chỉ có người trong cuộc mới hiểu mình đang tìm kiếm điều gì? Nguyễn Bỉnh Khiêm đỗ Trạng Nguyên, trở thành quan dưới triều Mạc là ước mơ của bao kẻ theo đuổi mà Trạng Trình đã đạt được. Ông đề nghị chém chúa nhưng không được chấp thuận nên lui về ở ẩn, lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ. Ông chọn cách lánh xa chốn phồn hoa, tìm về cuộc sống gần gũi với làng quê bình dị trong vai một “lão nông tri điền” để giữ lấy phẩm chất cao quý của mình. Anh cũng nhận ra triết lý nhân sinh ở đời, vẻ đẹp trong tâm hồn mới là điều đáng quý chứ không phải là điều phù phiếm như giàu sang, danh vọng. Cái nhìn sâu sắc, sáng suốt ấy được chuyển tải trọn vẹn trong thể thơ bảy câu tám chữ của Đường luật trong bài “Nhàn”. Nguyễn Bỉnh Khiêm có tất cả rồi bỏ, người ta tưởng ông ngu, nhưng nhìn họ mới thấy họ thực sự “dại” khi theo đuổi “giấc mơ”.

Ở nơi vắng vẻ, tĩnh lặng, Nguyễn Bỉnh Khiêm sống một cuộc sống ung dung, nhàn nhã, mỗi ngày trôi qua với những hoạt động rất đời thường, với những thú vui tao nhã “Rượu đến cây ta uống/ Coi phú quý như chiêm bao”. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, tự nhiên, giản dị, cách ngắt nhịp đặc biệt, thể hiện lối sống ung dung, thư thái. Uống rượu ngắm cảnh là thú vui tao nhã của bao thế hệ thi nhân, ẩn sĩ nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm nhắc đến rượu và chốn “cây” rồi bộc bạch “phú quý như mộng” và ông đã chọn làm người. khác với việc chỉ “thấy”. Hai câu thơ cuối xác định ý chí sống nhàn nhã, làm kẻ ngoại đạo “ở chốn lao xao”, đứng ngoài nhìn thiên hạ tranh giành danh lợi. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nhắc đến sự tích Thuấn Vu Phân để khép lại quan điểm và thể hiện triết lý sống của mình. Thuần Vu Phân là một tướng tài, vì xúc phạm nguyên soái mà bị mắng nên từ chức về nhà thú tội uống rượu. Một lần, Thuấn Vu Phân say rượu nằm ngủ bên gốc cây, mơ thấy mình làm phi tần của Hòe Vương, hưởng mọi vinh hoa phú quý ở đời. Khi tỉnh dậy, anh nhận ra đó là một giấc mơ. Nguyễn Bỉnh Khiêm mượn một điển tích trong truyện đời Đường để bày tỏ thái độ. Anh coi chốn quan trường như một giấc mơ, một ảo ảnh. Trốn đời là sự lựa chọn bất đắc dĩ của hầu hết các quan lại trong thời kỳ suy vong, quan lại, sâu mọt. Lời thơ tự nhiên không hoa mỹ, không quá nhiều biện pháp nghệ thuật nhưng lại gửi gắm những điều đáng suy ngẫm. So sánh “của cải” với “ước mơ” chứng tỏ ông coi thường phú quý, danh lợi và đưa con người vào con đường đánh mất nhân cách.

Xem thêm bài viết hay:  Hướng dẫn viết email xác nhận phỏng vấn bằng tiếng anh

Bài văn mẫu 2 – Phân tích triết lý nhân sinh trong một bài thơ giải trí

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống trong gần một thế kỷ đầy biến động của chế độ phong kiến ​​Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh. Trong những chấn động làm rạn nứt những mối quan hệ cơ bản của hệ thống phong kiến, ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống con người, vừa trung thành bảo vệ những giá trị đạo đức tốt đẹp thông qua những vần thơ triết lý về nhân sinh thế sự, với thái độ sâu sắc của các nhà Nho lớn. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một ẩn sĩ cao thượng, vượt qua những tầm thường xấu xí của cuộc sống bon chen vì danh lợi.

Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức Nho giáo để bộc lộ quan niệm sống của mình. Những suy tư này có quan hệ mật thiết với những quan niệm đạo đức của con người, thể hiện cái nhìn lành mạnh về cuộc sống giữa một thế giới cuồng nhiệt. Giải trí là cách quen thuộc của Nho giáo để đối diện với thực tại, thoát ly cuộc sống trần tục, tìm niềm vui trong thiên nhiên, giữ mình trong sạch. Hành trình nhàn tản của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm trong quy luật đó, tìm về với nhân dân, chống lại thường dân với hàm ý vừa ngạo mạn vừa hiểm độc.

Cuộc sống nhàn hạ hiện ra với bao điều thú vị:

Quả mận, cái cuốc, cần câu

Làm thơ dù ai vui

Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện ra một Nguyễn Bỉnh Khiêm mộc mạc trong bộn bề lo toan như một người nông dân thực thụ. Nhưng đó là cách Nho sĩ chọn cách hưởng thụ nhàn tản, tìm về cuộc sống “cá, bống, canh, lạt” như một cách dứt khoát đối lập với những thú vui khác, để khẳng định sự cao thượng. hoàn toàn từ cuộc sống đất nước này! Hình ảnh thơ được miêu tả trong bài thơ thật độc đáo, mang lại sự bình lặng của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản. Thực ra, sự hiện diện của cành mai, cây mai, chiếc cần câu chẳng qua chỉ là một cách tô điểm cho cuộc phiêu lưu ở thế giới bên kia của nhà thơ. Những công cụ lao động quen thuộc của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống thoát khỏi những lo toan trần tục. Đằng sau những liệt kê của nhà thơ, chúng ta thấy rằng suy nghĩ của ông không tách rời khỏi cái nhìn của mọi người về một người đàn ông đã chọn cuộc sống ẩn sĩ vì những lý do riêng của mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của người dân chứa đựng vẻ đẹp cao siêu, triết lý sống bền vững

Xem thêm bài viết hay:  Thuyền ai đậu bến sông trăng đó có chở trăng về kịp tối nay | Ngữ Văn 11

Đó cũng là cơ sở để nhà thơ khẳng định một thái độ sống dũng cảm:

Tôi ngốc nghếch, tôi đang tìm một nơi bình yên.

Người khôn ngoan tìm một nơi để đi

Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ và nhà lạc thú về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng của họ trong cuộc sống. Sự tương phản chuẩn mực đã tạo nên hai thái cực đối lập: một bên là nhà thơ tự hào ca ngợi Ta, bên kia là Người; một bên là sự dại dột của Ta, một bên là sự khôn ngoan của bạn; Một nơi yên tĩnh nơi có một sự náo động. Đằng sau những phép đối ấy là những hàm ý hình thành nên phép đối khẳng định thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chính nhà thơ đã nhiều lần định nghĩa dại – khôn bằng cách nói ngược này. Bởi trên đời, người ta dùng cái ngu – cái khôn để tính toán, tranh giành thiệt hơn, nên thực chất cái ngu – cái khôn chính là sự thực dụng ích kỷ biến con người thành tầm thường, kéo con người vào tình thế nguy hiểm. ham muốn thấp. Mượn cách diễn đạt này, nhà thơ thể hiện địa vị cao sang và đối lập với những kẻ mù quáng vì hư danh giữa thời loạn. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là người chủ động tìm nơi yên tĩnh – không khói bụi. Nhưng khác với câu nói xưa của Khuất Nguyên “Thế gian tỉnh, ta say” đầy sầu muộn, Trạng Trình cười nhạo thói đời bằng cái mấp máy môi nhẹ nhàng mà sâu cay, phê phán cả một xã hội. Hội chạy theo danh lợi, với tư thế của người ngay thẳng, không ham những trò khôn và dại. Chính vì vậy mà nhà thơ cảm nhận được hết vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản:

Mùa thu ăn măng, mùa đông ăn mầm

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm hồ sen

Khác với lối hưởng thụ vật chất đắm chìm trong vinh hoa, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã biết hưởng thụ những ưu đãi của thiên nhiên một cách hào phóng với tấm lòng chan hòa với thiên nhiên. Tận hưởng sự ưu đãi của thiên nhiên trong bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông, nhà thơ cũng như được tiếp thu những tinh hoa của đất trời để gột rửa mọi muộn phiền muộn phiền. Cuộc sống ấy mang dấu ấn thoát ly, tiêu biểu cho quan niệm “độc nhất, duy nhất” của Nho giáo, đồng thời có những điểm tương đồng với triết lý “vô” và “thoát” của Đạo gia. . Đức Phật. Nhưng gác lại những triết lý siêu hình, ta nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hòa hợp với thiên nhiên một cách sang trọng bằng tất cả sự hồn nhiên của trái tim. Không chỉ vậy, hình ảnh măng non, búp măng, đầm sen còn mang ý nghĩa tượng trưng gắn liền với phẩm chất cao quý của một người sống trọng nghĩa khí, sống không hổ thẹn trong lòng. Hòa hợp với thiên nhiên, chồng của Tuyết Giang sống theo Thiên Lương. Quan niệm của nhà thơ về chữ nhàn được phát huy đầy đủ qua lời khẳng định:

Rượu cho cây ta sẽ uống

Thấy phú quý như giấc mộng

Mượn điển cố một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói lên thái độ sống của mình là dứt khoát đoạn tuyệt với danh lợi. Quan niệm ấy vốn gắn với Đào – Trang, mang ý nghĩa yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại mà nhà thơ đang sống lại bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc đời của những kẻ chạy theo danh lợi mà ông căm ghét và lên án trong nhiều bài thơ về thân phận con người của ông:

Ở vị trí mới này hoặc những kẻ xấu

Giàu có là xa xỉ, khó bỏ.

(Thói quen cuộc sống)

Của cải và quyền thế đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của một lũ bịp bợm, giẫm đạp lên nhau để sống. Chúng là một bầy chuột lớn, chuyên đi hãm hại những người mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Sang (Những con chuột đáng ghét) của ông. Vì vậy, có thể hiểu rằng, thái độ coi phú quý là ước mơ cũng là cách mà nhà thơ chọn để sống gần gũi, sẻ chia với nhân dân. Nếp sống thanh đạm nhưng cao thượng của người bình dân rất được trân trọng vì nó mang lại sự thanh thản cũng như giữ cho nhân cách không bị vấy bẩn trong một xã hội chạy theo sức mạnh của đồng tiền. Cội nguồn triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành mạnh tốt đẹp của nhân dân.

Xem thêm bài viết hay:  Giải Trắc nghiệm Tin học 12: Bài 7 (có đáp án)

Bài thơ Nhàn chứa đựng tất cả triết lí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bộc lộ đầy đủ một nhân cách của một vĩ nhân ở ẩn, tìm cách trở về với thiên nhiên và cuộc sống của con người để triệt để tiêu diệt chúng. để chiến đấu với nó. với xã hội phong kiến ​​đang trên đà suy vong. Bài thơ là kinh nghiệm sống, là bản lĩnh cứng cỏi của một con người chân chính.

Vì thế Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội Hoàn thành bài văn mẫu về triết lý nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Hi vọng nó sẽ giúp ích cho các bạn trong quá trình làm và thực hành với tác phẩm. Chúc bạn học tốt môn Văn!

Đăng bởi: Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội

Chuyên mục: Điểm 10

Nhớ để nguồn bài viết này: Phân tích triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Văn mẫu 10 hay nhất của website vietabinhdinh.edu.vn

Chuyên mục: Giáo dục

Xem thêm chi tiết về Phân tích triết lí nhân sinh trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm – Văn mẫu 10 hay nhất

Viết một bình luận