Sợi tổng hợp Lập dàn ý cho 4 bài Tràng Giang do Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội sưu tầm và biên soạn. Thông qua dàn ý ngắn gọn và bài văn mẫu dưới đây, các em sẽ có thêm tư liệu và các cách viết khác nhau, để các em tiếp cận tác phẩm với cái nhìn mới, đa chiều. Mời các bạn đón xem!
Lập dàn ý cho 4 bài Tràng Giang
I. Mở bài: giới thiệu khổ thơ cuối bài thơ Tràng Giang
Ví dụ:
Một trong những nhà thơ nổi tiếng với phong trào Thơ mới là nhà thơ Huy Cận, mỗi bài thơ đều có một phong cách riêng. Thơ Huy Cận có lối thơ súc tích, triết lí riêng, phục vụ cách mạng nước ta lúc bấy giờ. Một trong những tác phẩm thơ nổi tiếng là bài Tràng Giang trong tập thơ Lửa thiêng. Bài thơ tả cảnh mùa thu 1939, bài thơ được sáng tác khi tác giả nhìn ra bờ sông Hồng dưới mặt nước mênh mông. Đặc sắc nhất là khổ thơ cuối của bài thơ Tràng Giang. Cùng tìm hiểu khổ thơ cuối để hiểu thêm về phong cách thơ Huy Cận.
II. Nội dung bài: phân tích khổ thơ cuối bài thơ Tràng Giang
1. Hai câu đầu: màu sắc cổ điển của bức tranh thiên nhiên.
- Hình ảnh mây, núi, gió được thể hiện rất rõ nét, nổi bật trong bài thơ
- Hình ảnh tầng mây tượng trưng cho nỗi buồn của tác giả.
- Hình ảnh con chim lẻ loi thể hiện nỗi buồn sâu lắng của tác giả
- Hình ảnh cánh chim không chỉ báo hiệu hoàng hôn mà còn thể hiện cái tôi nhỏ bé của tác giả
2. Hai câu cuối:
- Nhà thơ cảm thấy nhớ quê hương khi đứng trước cảnh thiên nhiên
- Nỗi buồn của Huy Cận được thể hiện rất sâu sắc và nổi bật
- Khát vọng vì cái tốt, cái đẹp của quê hương, cống hiến cho quê hương, đất nước
III. Kết bài: Nêu cảm nhận của em về khổ thơ cuối bài thơ Tràng Giang
Ví dụ:
Khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang thể hiện cảnh sông núi hùng vĩ. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện cái tôi nhỏ nhoi của tác giả.
Phân tích bài văn mẫu Tràng Giang tập 4.
Nhà thơ Huy Cận có nhiều bài thơ tả cảnh thiên nhiên và tình yêu đất nước rất hay, trong đó nổi bật nhất là bài thơ “Tràng Giang” là bài thơ tiêu biểu của phong trào thơ ca. Mới. Trong bài thơ “Tràng Giang”, khổ thơ cuối nói lên tâm trạng buồn bã, cô đơn, bơ vơ của tác giả khi nhớ nhà:
“Tầng mây cao phủ lên núi bạc,
Con chim nhỏ nghiêng mình trong bóng tối,
Lòng đất nước nhấp nhô sóng nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Huy Cận đã khéo léo vẽ nên vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bầu trời trên cao:
Mây cao đùn núi bạc,
Con chim nhỏ trong bóng tối.
Tác giả đã sử dụng từ “tầng lớp, lớp lớp” ở đây để miêu tả rõ hình ảnh nhiều tầng mây, mỗi tầng mây lại bàng bạc cả một vùng trời, câu thơ: “mây cao đùn núi bạc”. Đoạn thơ sử dụng phép so sánh ẩn dụ và bút pháp nổi bật với “mây cao đùn núi bạc” thành “tầng lớp, lớp lớp” khiến người đọc hình dung những đám mây trắng dưới nắng như dát bạc. Hình ảnh ấy mang vẻ đẹp cổ điển trữ tình lại càng thơ mộng hơn khi được bắt nguồn từ một bài thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
“Mặt đất mây đùn xa cửa ô” Để tô điểm thêm cho vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ, tác giả đã so sánh màu mây với “bạc” bằng một so sánh khá khéo léo. Huy Cận đã khéo léo sử dụng động từ “đùn” khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, hết lớp này đến lớp mây cứ đùn ra thành núi bạc. Đây cũng là một nét thơ đầy tính hiện đại, bởi nó đã vận dụng một cách sáng tạo từ thể thơ cổ điển quen thuộc. Và nét hiện đại được bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm ở câu thơ sau.
Dấu hai chấm này gợi ý mối quan hệ giữa chim và bóng chiều. Bầu trời bao la, cánh chim chao nghiêng, nhưng ở đây không phải là sự nghiêng bình thường mà là “chim cánh nhỏ: bóng chiều”: Cánh chim nhỏ bay theo. bóng chiều rủ nhau xuống. Mặt sông, hay chính bóng chiều, trĩu nặng những cánh chim nhỏ làm nghiêng vạn vật. Câu thơ tả không gian nhưng gợi thời gian bởi sử dụng “cánh chim” và “bóng chiều” là những hình ảnh thẩm mỹ để tả cảnh hoàng hôn trong thơ cổ điển. Có lẽ đàn chim đã vội bay đi. trở về nhà của họ để tránh “bóng tối”.
Dường như đôi cánh ấy đang bị ánh hoàng hôn đè nặng và điều đặc biệt hơn ở đôi cánh của loài chim khác thường là con chim nghiêng đôi cánh nhỏ, con bay về tổ để tránh. một không gian rộng lớn vào buổi chiều. Con chim bay đi đâu để thoát khỏi cái bóng đang đè nặng lên mình? Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc bắt gặp một tâm trạng hiện đại:
Trái tim của đất nước phồng lên với nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
“Lòng quê hướng về quê” TRUYỆN DÀI ở đây muốn nói lên nỗi nhớ quê hương, khát vọng của nhà thơ chứ không chỉ là tấm lòng giản dị, chân quê. Hai từ “bồng bềnh” cho ta cảm nhận sóng đang ở bên ta, sóng cũng nhớ hay là tác giả đang nhớ?
“Lố bịch” là một từ nguyên sáng tạo chưa từng thấy của Huy Cận. Từ lóng này tương ứng với cụm từ “những người con của đất nước” thể hiện một nỗi niềm, nỗi cô đơn của “trái tim của đất nước”. Hai từ “bồng bềnh” còn gợi cho ta sự lên xuống của sóng biển hay nỗi nhớ da diết của nhà thơ khi đứng trước khung cảnh hoang vắng của một buổi chiều tà. Và nỗi nhớ ấy không chỉ một lần mà liên tục, nhiều lần nhưng chỉ “dao động” chứ không tha thiết. Bài thơ muốn nói lên nỗi nhớ quê hương của tác giả khi còn sống ở miền sông nước. hay trong những câu chuyện ở nước ngoài, cô cũng nhớ nhà nhưng không biết nhà ở đâu khi:
“Mây trắng bốn phương một màu.
Nhìn hay quá, quê hương biết đâu là quê hương”
Kiều nhớ quê hương mà bốn phương một màu, làm sao nhận biết đâu là quê hương hay vào đời mới biết đâu là quê hương, đâu sẽ là quê hương? Vâng, nỗi nhớ quê hương được gợi lên qua từ ngữ. mây trắng”, cánh chim chiều và tác giả nhấn mạnh từ “nước”. Tác giả kết thúc đoạn thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng:
“Hoàng hôn không khói cũng nhớ nhà”
Nhà thơ mượn từ “khói” trong tứ thơ để nói lên cảm xúc của mình, nếu nhà thơ Tô Hiệu nói “trên sông khói sóng làm buồn ai” thì nhà thơ HUY CẦN đã không có “khói”. nhưng tôi vẫn nhớ về mái ấm hay chiếc nôi đã nuôi tôi khôn lớn. Trạng nguyên mới nói chung chung nỗi nhớ nhà, nhưng ở đây Huyền Thơ lại khẳng định “không khói hoàng hôn, nỗi nhớ nhà” thật thấm thía và dứt khoát.
Thuở thi nhân thôi buồn bởi cõi thần tiên đã tối, quê hương đã xa, khói sóng trên sông gợi cho tác giả sự mơ hồ, buồn man mác. Nhưng giờ đây Huy Cận lại buồn trước khung cảnh không gian vắng vẻ, những con sóng “sóng gió” gợi nhớ quê hương như nguồn ấm, mái ấm hạnh phúc của mình. Thôi đi tìm những giấc mơ thần tiên, chỉ thấy hư vô, đó là khát khao thực sự về quê hương, còn Huy Cận một mình đối diện với cảnh hoang vắng, lòng lại muốn trở về quê hương chan chứa yêu thương. . Yêu thương và mang đến hơi ấm cho tác giả cũng là nguyện vọng của anh.
Với sự so sánh và miêu tả tài tình, nhà thơ đã thể hiện rõ tình cảm và nỗi nhớ quê hương da diết của tác giả. Nỗi nhớ quê hương da diết khi đứng giữa quê hương mà quê hương không còn. Đây là tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc này, một nỗi xót xa trước cảnh nước mất nhà tan.
Phân tích khổ thơ thứ 4 của bài thơ Tràng Giang của Huy Cận, ta thấy thơ ông chất chứa một nỗi buồn, nỗi buồn ở đây không phải là nỗi buồn vì cảnh vật nhạt nhòa, không gian chật hẹp chật hẹp mà là nỗi buồn man mác. buồn vì những mỹ nhân thiếu nhân tính, vì mất đi những mối quan hệ phổ quát. Một nỗi buồn triết lý sâu sắc, nỗi buồn ấy cũng phản ánh những đòi hỏi đang đổi thay của xã hội, khổ thơ cũng muốn nói lên nỗi buồn của những người phải xa quê hương.
Vì vậy, Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội cung cấp một số dàn ý cơ bản cũng như một số bài văn mẫu hay khổ thơ 4 Tràng Giang để các em tham khảo và có thể viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh. Chúc may mắn với việc học ngôn ngữ của bạn!
Đăng bởi: Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
Chuyên mục: Ngữ văn lớp 11 , Ngữ văn 11
Bạn thấy bài viết Lập dàn ý khổ 4 bài Tràng Giang có giải quyết được vấn đề bạn đang tìm kiếm không?, nếu chưa, hãy góp ý thêm về nó. Lập dàn bài 4 bài Tràng Giang bên dưới để https://vietabinhdinh.edu.vn/ chỉnh sửa & hoàn thiện nội dung tốt hơn phục vụ bạn đọc! Cảm ơn bạn đã ghé thăm website của trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
Nhớ để nguồn bài viết này: Lập dàn ý khổ 4 bài Tràng giang của website vietabinhdinh.edu.vn
Chuyên mục: Giáo dục