4 Câu thơ thiền của Phật hoàng Trần Nhân Tông, hậu thế nên ghi nhớ!

Bạn đang xem: 4 Câu thơ thiền của Phật hoàng Trần Nhân Tông, hậu thế nên ghi nhớ!
tại vietabinhdinh.edu.vn

Vua Trần Nhân Tông còn được gọi là Phật Hoàng vì ngài là một tấm gương phi thường được con cháu và nhân dân ghi nhớ và kính trọng hàng ngàn năm từ khi sinh ra cho đến khi thành đạo! Đối với người tu Thiền, “Chư Trần Lạc Đạo” bốn dòng 28 chữ của ông đã trở thành kinh điển.

Hãy cùng nhìn lại kinh nghiệm giác ngộ trong cuộc đời của Đức Phật Trần Nhân Tông!

Nguyên văn bài thơ:

Đi nhầm đường, làm phép, nàng tiên Coco rất khổ sở. Đời trung ấm gìn giữ thanh tịch cho cảnh thiền vô vi.

dịch bệnh:

Sống ở đời, hưởng Đạo, ăn theo mệnh. Đói thì ăn, mệt thì ngủ. Có nhà kho báu, đừng tìm nơi khác. Nói chung, nếu bạn vẫn giữ được tâm vô vi thì không cần đặt vấn đề về thiền.

Dịch thơ:

Thế giới hạnh phúc và con đường là tự do,Nếu bạn đói, bạn sẽ ăn và ngủ.Tìm kho báu trong nhà,Đối với vô tâm thì đừng hỏi thiền.

Câu này dường như để diễn giải và tóm tắt cuộc đời của anh ấy. Nó chứa đựng Đạo mà ông đã lĩnh hội, đồng thời trở thành phương hướng truyền dạy và luyện tập võ thuật của các thế hệ sau.

Thế gian vui, Đạo theo ý nguyện

Vị tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm là Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258-1308) tên thật là Trần Khang, là con trưởng của vua Trần Thánh Tông và hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Thiệu.

bài viết liên quan

  • 4 lời thiền của Phật hoàng Trần Nhân Tông, thế hệ mai sau hãy ghi nhớ! 15 Tháng Một, 2019
  • Có chuyện gì với bạn vậy? TIÊN – THAM – SI là gì? – TÂM VĂN 04/10/2019
  • Thiên Đình giúp tăng số phòng chat thông minh Thiền Giúp Tăng Cường Chất Xám, Bạn Sẽ Thông Minh Hơn, Kiên Định Hơn 02/04/2019
  • Hình vốn dĩ tốt, ba là người Lợi ích của thiền đối với sức khỏe và tâm trí con người 02/03/2019

Ngay từ khi sinh ra, ông đã là một vị thánh trong số các vị thánh, với vẻ ngoài trong sáng, nước da vàng, thân hình hoàn hảo và thần thái rạng ngời, vì vậy cha và ông nội của nhà vua, Hoàng đế Chen Taizong, đã gọi ông là Jin Tianzhong.

Theo sử sách, Chen Kang có một nốt ruồi to bằng hạt đậu trên vai phải, được thầy bói dự đoán rằng hoàng tử sẽ làm nên chuyện lớn trong tương lai.

Năm mười sáu tuổi, ông được phong làm thái tử, muốn từ chối nhường ngôi cho em nhưng vua cha không chịu. Vua gả con gái trưởng của mẹ Nguyên Dục, sau là Khang Đức hoàng hậu, cho mình.

Sống trong cảnh sung sướng yên vui như vậy mà lòng Ngài vẫn thích tu hành. Nửa đêm trốn vào thành, định vào núi Yên Đồ. Khi đến Đại Tháp trên núi Đông Cửu thì trời đã sáng, Ngài mệt quá bèn vào Đại Tháp nằm.

Thấy anh lạ, vị sư trụ trì ở đây liền làm bữa tối cho anh. Khi cha anh biết chuyện, ông đã cử các quan đi tìm anh, nhưng anh không chịu trở về.

Anh từng ăn chay nên rất gầy. Tongsheng cảm thấy kỳ lạ, hỏi lý do và nói sự thật với cha mình. Tongsheng khóc và nói: “Bây giờ tôi đã già, và tôi chỉ có thể trông cậy vào bạn, và bạn cũng vậy. Tại sao tôi phải gánh vác nghiệp chướng của tổ tiên?”.

Anh nghe ứa nước mắt. Vì vậy, hắn nghe theo mệnh của con trai, dốc lòng làm hiếu, chuyên tâm học kinh thiên hạ, cho cha yên lòng, kế thừa tổ tông. thực sự như thế:

Nếu muốn lìa đời, đừng đánh mất chữ hiếu. Xã Tắc nguy nan, kỳ tích Trung Hưng trường tồn.

đừng ăn

Đông Tà, Diên Tử.

Khi quân Nguyên sang xâm lược, ông đã gắn kết quân dân với số phận và trách nhiệm của Hà Dục, đích thân xông lên, kiên quyết động viên, khích lệ tướng sĩ, cùng quân Nguyên bảo vệ đất nước.

Dưới thời Trần Nhân Tông, có hai cuộc hội họp nổi tiếng được sử sách ghi lại: Hội nghị tướng quân năm Bính Thân và Hội nghị các bô lão họp ở Diên Hồng để bàn kế sách, bày tỏ quyết tâm đánh giặc. . Sách Việt Nam Sử Lược chép:

“Mỗi lần có tin quân Nguyên đến cướp, đại vương phải đích thân ra quân lo liệu. Đi đông đi tây, không nên theo một khuôn mẫu, bất kể trên bộ hay dưới nước, không nhất định đóng cửa, thời tiết không nóng bức, bởi vì vua ở bên ngoài, thuận tiện gọi người, theo truyền thống, binh hung hãn, tướng sĩ tiện xin lệnh, ba quân chuẩn bị xông lên. Quân thuộc quốc, phú thuộc quốc, binh xông lên, gặp họa có thể tùy ý chống, lui thì địch như chớp, rồng rắn rình rập, địch đại bại. Nếu chỉ ẩn nấp trong thành, giặc cho là thành trì, thì chặn đường tiếp tế, không cho viện binh vào cho đến khi lương kiệt, sức tàn không mấy nguy hiểm, khi có tin giặc mai phục, vua lập tức ra trận. Đó là giai đoạn tiếp theo. Sức mạnh và lối chơi của kẻ thù không phải là nhà Trần.

Kỳ tích quân dân Đại Việt hai lần đại phá quân Nguyên Mông chấn động bốn phương, Nguyễn Song đúc kết:

Cui Sanqian đã hồi sinh công việc kinh doanh, bán cam và bán cá nhân.

Dịch thơ:

Đại công nghiệp của Zhonghong đã tồn tại hàng nghìn năm, nửa dựa vào núi, nửa dựa vào người.

Làm một người con hiếu thảo, làm một vị vua nhân từ, lấy thân báo đáp tổ tiên, làm người chồng của quê hương, và quản lý cuộc sống của hoàng đế. Những người con của người dân sau bao năm chinh chiến vẫn bình an vô sự ngày ngày phụng dưỡng cha tròn bổn phận, dạy dỗ thái tử trưởng thành, đủ tài gánh núi nặng.

Năm 1299, Ngài lìa bỏ danh lợi thế tục, đến thánh địa núi non, gột rửa tâm hồn, tùy tâm nguyện, xuất gia tu hành, tìm lại mộng xưa, vững bước nơi trần gian. Đường về chơn là về tịnh độ.

Sau khi đạt giác ngộ nhờ tu khổ hạnh, Ngài y theo nhân duyên của đấng giác ngộ mà giáo hóa thế gian, hoằng dương chánh pháp.

Ngài tinh tấn tu bố thí, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà. Sau đó, ông xây dựng một ngôi chùa, xây dựng một jingshe và mở luật để giúp đỡ các nhà sư. Tìm hiểu họ để tham gia vào một số lượng lớn các cuộc thi. Sau đó, ông thành lập một giảng đường tại Chùa Foming trong Dinh thự Tianchang và giảng dạy trong vài năm.

Thiền phái Trúc Lâm dựa trên nền tảng Phật giáo Nam Á và thiền Đông Độ, đồng thời vận dụng các giá trị văn hóa Việt Nam để khuyến khích Phật tử đóng góp cho xã hội trên nền tảng từ bi – trí tuệ Phật giáo. . Ngài cũng xây dựng nhiều tu viện và giảng dạy khắp cả nước, cả ở nông thôn và thành thị.

Như Thiền sư Thái Thượng Hoàng, Ngài dạy người ta bỏ thói hư tật xấu, tu nhân tích đức bằng mười điều lành (mười điều lành).

Ông lưu lạc đến trại Tri Kiến do Bố Chánh thành lập và ở lại đó. Lời kể của Trần Quang Chỉ trong bức tranh “Trúc Lâm Đại Từ Đại Bi” mô tả chuyến đi như sau:

“Một lần Ngài đi xa cứu nước láng giềng, xuống phía nam đến Chiêm Thành, thường khất thực trong thành, vua Chiêm Thành biết việc, rất cung kính mời, tặng lễ vật, sắm thuyền, rồi cho về nước. mặt đối mặt…”.

Cũng chính trong thời gian truyền giáo này, ông đã hứa gả con gái là công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Chế Mân. Đổi lại, Chế Mân đòi nhượng hai châu Ô, Lý cho Đại Việt.

Vào ngày 1 tháng 11, khi bầu trời quang đãng và những vì sao lấp lánh, anh hỏi người phục vụ Baosa:

bức tranh đẹp

Chân dung công chúa Huyền Trân.

“mấy giờ rồi?”Nói với Sabah: “Khoảnh khắc chuột”.Hắn đưa tay vén rèm nói: “Đi nào”Bảo Sát hỏi: “Công lao đã đi đâu?”Anh nói và trả lời:

Nguyên bản:

Cũng như pháp nhất thiết bất sinh, pháp nhất thiết bất hoại, Phật thấy pháp thường hằng. Hà sử dã liễu.

Dịch thơ:

Tất cả các pháp không sinh, tất cả các pháp không diệt, nếu biết được điều này, thì tất cả chư Phật thường trụ. Đến và đi.

Nói xong, Ngài nằm như sư tử mà đi, đó là năm Xích Long thứ mười sáu (1308), hưởng thọ năm mươi mốt tuổi.

Thể theo nguyện vọng của ông, Pháp Loa làm lễ hỏa táng và thu xương ngọc ngũ sắc cho vào bình. Vua Antong và hoàng tộc đã mang một giá rồng để xử lý xương ngọc và cất giữ ở Delang, đồng thời xây dựng một bảo tháp tại chùa Yunyan trên núi Antu, đặt tên là Tháp vàng Huiguang, và đặt tên cho nó là Chen Zhaozhu của nhà Thanh. triều đại. . Lâm Đầu – Phật Đà Tịnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự.

điện hoa

Chùa Heyan, núi Yantu.

Trí Tuệ Thiền Phái Trúc Lâm

Lúc đầu, ngài từ bỏ mọi danh lợi, tình ái trên đời và lên núi tu khổ hạnh, nhưng sau đó ngài phát hiện ra rằng khổ hạnh là một cực đoan khác. Vì vậy Ngài lấy nghĩa vàng, bỏ danh lợi nhưng không ép thân tu khổ hạnh: “Đói thì mỏi, mệt thì ngủ”.

Và khi đắc đạo, Ngài thấy tu hành chỉ là hình thức, tu thực chất là tu tâm: “trực chỉ nhân tâm, kiến ​​tánh thành Phật”. Vì vậy, tôi cảnh báo các thế hệ tương lai không được bắt chước anh ấy, khám phá những ngọn núi, học Đạo và bắt chước những nơi tận cùng thế giới mà anh ấy đã đi. Đó là tu tâm, tìm Phật tánh, tìm bản chất tốt đẹp của chính mình.

Đó là:

Bỏ danh lợi, không tu khổ hạnh, tùy duyên đi theo trung đạo. Bạn không cần phải đi đến tận cùng thế giới để tìm thấy Đức Phật, trau dồi tâm trí của bạn và cắt bỏ những ham muốn của bạn là thiền định.

Qua: DKN.tv

Thẻ Thiền Phật

Bạn thấy bài viết 4 Câu thơ thiền của Phật hoàng Trần Nhân Tông, hậu thế nên ghi nhớ!
có đáp ướng đươc vấn đề bạn tìm hiểu không?, nếu không hãy comment góp ý thêm về 4 Câu thơ thiền của Phật hoàng Trần Nhân Tông, hậu thế nên ghi nhớ!
bên dưới để vietabinhdinh.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: vietabinhdinh.edu.vn

Nhớ để nguồn bài viết này: 4 Câu thơ thiền của Phật hoàng Trần Nhân Tông, hậu thế nên ghi nhớ!
của website vietabinhdinh.edu.vn

Chuyên mục: Hình Ảnh Đẹp

Xem thêm chi tiết về 4 Câu thơ thiền của Phật hoàng Trần Nhân Tông, hậu thế nên ghi nhớ!
Xem thêm bài viết hay:  35+ Ảnh Raz Đẹp Muay Thái 3d Ngầu, Chất Lượng Cao

Viết một bình luận